Những ngày đầu tháng 7, Trump đã công bố mức thuế mới với Việt Nam. Trong đó, hàng hóa Việt Nam sẽ chịu mức thuế 20% và hàng hóa Transhipping sẽ chịu mức thuế 40%. Trong thời gian chờ hướng dẫn chi tiết từ phía cơ quan chức năng, hãy tìm hiểu thêm 1 chút về Transhipping và tại sao Mỹ lại nhấn mạnh vấn đề này.
Việt Nam và Mỹ không có hiệp định thương mại chung?
Trong các hiệp định có tính chất ưu đãi thuế quan, Việt Nam và Mỹ từng tham gia hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương. Tuy nhiên, Trump đã rút Mỹ khỏi hiệp định này từ nhiệm kỳ đầu tiên của ông ấy ~2017. Tính tới hiện tại, Việt Nam và Mỹ không nằm trong hiệp định FTA nào và cũng không nằm trong hiệp định FTA đang đàm phán nào cả. Do vậy, về lý thuyết, hàng hóa VN xuất đi Mỹ không cần phải xin chứng nhận xuất xứ (CO) để được hưởng ưu đãi.

Chính quyền Việt Nam cấp CO cho doanh nghiệp, đồng thời cũng là quản lý việc doanh nghiệp có thật sự sản xuất hàng hóa ở Việt Nam hay không. Việc không cần CO khi xuất Mỹ, đồng nghĩa với việc Chính quyền Việt Nam không kiểm soát quá chặt chẽ về nguồn gốc xuất xứ của những mặt hàng này. Do vậy, việc họ sản xuất hoặc gia công đơn giản (VD: nhập thành phẩm, thay vỏ hộp; nhập bán thành phẩm và lắp ráp giản đơn) sẽ không bị quá chú ý nếu không vi phạm pháp luật.
Vì vậy, mới có việc các doanh nghiệp khôn lỏi, nhập khẩu bán thành phẩm hoặc nguyên chiếc từ nước thứ 3 về, lắp ráp giản đơn ở trong nước và xuất sang Mỹ để được hưởng ưu đãi thuế quan. Lấy ví dụ như:
- Một chiếc Ấm siêu tốc từ VN sang Mỹ sẽ nộp thuế 20%
- Một chiếc Ấm siêu tốc tương đương từ TQ sang Mỹ sẽ nộp thuế 50% (30% thuế NK và 20% “thuế Fetanyl”).
Khi nhập khẩu vào Mỹ, CO cũng không là tài liệu bắt buộc. Do vậy, việc các doanh nghiệp “transhipping” hàng hóa để hưởng ưu đãi thuế quan là hoàn toàn xảy ra. Ước tính khoảng 2%-17% hàng hóa từ Việt Nam vào Mỹ có tiềm ẩn transhipping này (cái này mình sẽ kiểm tra lại nguồn).
Doanh nghiệp nên làm gì để tránh bị cáo buộc hàng hóa là “transhipping”
Người đóng thuế là người mua/người nhập khẩu. Do vậy, để tránh rủi ro bị cáo buộc hàng hóa là “transhipping” và chịu truy thu thuế, người mua (nhập khẩu) có xu hướng yêu cầu doanh nghiệp Việt phải cam kết về nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa bằng các điều khoản trong hợp đồng. Hoặc chặt hơn, họ yêu cầu doanh nghiệp Việt phải xin CO Form B (đây là loại CO không nhằm mục đích hưởng thuế quan, chỉ nhằm mục đích chứng nhận xuất xứ) để đảm bảo hàng hóa này được sản xuất và có đầy đủ tiêu chí xuất xứ từ Việt Nam.
Nếu ở vai trò người bán, để bảo vệ mình, cũng nên chủ động xin CO Form B này và yêu cầu người mua chia sẻ chi phí, rủi ro. Việc xin CO Form B thể hiện rõ ràng tính minh bạch của sản phẩm, hạn chế các rủi ro cáo buộc “transhipping” về sau. Chi phí xin CO không hề đắt (60.000 VNĐ/bộ), thậm chí phải nói là rất rẻ so với giá trị lô hàng hoặc rủi ro bị truy thu thuế.
Nhà nước nên làm gì để tránh rủi ro “transhipping”
Phía Mỹ nếu phát hiện hàng hóa thuộc dạng “transhipping”, bước đầu tiên họ làm có lẽ là truy thu thuế của người mua (người nhập khẩu). Việc này có thể không tổn hại nhiều tới Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, nếu rộng hơn Mỹ có thể áp thuế bổ sung lên cả một ngành sản xuất của Việt Nam hoặc xa hơn, nâng toàn bộ mức thuế của Việt Nam lên mức mới với cáo buộc “chúng ta không kiểm soát được tình hình trong nước”. Điều này chắc chắn là tổn hại to lớn tới đất nước trong việc đạt được mục tiêu tăng trưởng 2 con số trong thời gian tới.
Để tránh các rủi ro này, có chăng nên yêu cầu CO Form B là bắt buộc với tất cả các hàng hóa xuất khẩu. Chi phí và nguồn lực đi làm CO không lớn, nếu so sánh với giá trị đơn hàng và những lợi ích mà thị trường Mỹ mang lại.
Tìm hiểu thêm về CO Form B
Phần này dành cho các bạn trong xuất nhập khẩu một chút, mình tổng hợp từ kinh nghiệm ít ỏi thực tế (mình xuất Mỹ chỉ có 6% thôi) và tài liệu hướng dẫn từ cơ quan chức năng.
Để xin được CO form B, thì có các cách chuyển đổi HS code 2-4-6 số hoặc tỷ lệ nội địa hóa (LVC) phải đạt một ngưỡng tối thiểu nào đó. Chi tiết được quy định theo thông tư 05/2018/TT-BCT QUY ĐỊNH VỀ XUẤT XỨ HÀNG HÓA. Công thức tính LVC như sau:

Định nghĩa các thuật ngữ như sau:
“Trị giá nguyên liệu đầu vào có xuất xứ từ nước, nhóm nước, hoặc vùng lãnh thổ sản xuất” bao gồm trị giá CIF của nguyên liệu thu mua hoặc sản xuất trong nước có xuất xứ từ một nước, nhóm nước, hoặc vùng lãnh thổ; chi phí nhân công trực tiếp, chi phí phân bổ trực tiếp, các chi phí khác và lợi nhuận.
“Trị giá nguyên liệu đầu vào không có xuất xứ từ nước, nhóm nước, hoặc vùng lãnh thổ sản xuất” là trị giá CIF của nguyên liệu nhập khẩu trực tiếp đối với nguyên liệu có xuất xứ từ một nước, nhóm nước, hoặc vùng lãnh thổ khác; hoặc giá mua đầu tiên tại thời điểm mua vào ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng đối với nguyên liệu không xác định được xuất xứ dùng để sản xuất, gia công, chế biến ra sản phẩm cuối cùng.
“Chi phí nhân công trực tiếp” bao gồm lương, các Khoản thường và những Khoản phúc lợi khác có liên quan đến quá trình sản xuất;
“Chi phí phần bổ trực tiếp” bao gồm: Chi phí nhà xưởng có liên quan đến quá trình sản xuất (bảo hiểm nhà xưởng, chi phí thuê và thuê mua nhà xưởng, sửa chữa, bảo trì, thuế, lệ phí các); các Khoản thuê mua và trả lại của nhà máy và thiết bị; an ninh nhà máy, bảo hiểm (nhà máy, thiết bị và vật tư sử dụng trong quá trình sản xuất hàng hóa); các nhu yếu phẩm cho quá trình sản xuất (năng lượng, diện và các mặt hàng yêu phẩm khác đóng góp trực tiếp sử dụng trong quá trình sản xuất); nghiên cứu, phát triển, thiết kế về các tác; khuôn đúc, công cụ, việc trang bị cho các công trình, bảo trì và sửa chữa của nhà máy và thiết bị; tiền bản quyền sáng chế (có liên quan đến hàng hóa có mục đích cần quyền hoặc quá trình sử dụng trong việc sản xuất hàng hóa quyền sản xuất hàng hóa); kiểm tra và đánh giá những nguyên liệu từ trước qua đã dùng trong xử lý các chất thải; các nhân tố có chi phí trong việc tính toán giá trị của nguyên liệu nhưng chi phí càng và chi phí giải phóng hàng và thuế nhập khẩu đối với các thành Phần phí chịu thuế.
“Các chi phí khác” là các chi phí phát sinh trong việc đưa hàng lên tàu để xuất khẩu, bao gồm nhưng không giới hạn bởi chi phí vận tải nội địa, chi phí lưu kho, chi phí tại cảng, phí hoa hồng, phí dịch vụ, và các phí có liên quan trong quá trình đưa hàng lên tàu để xuất khẩu.
Vậy với một số hàng hóa Việt Nam hay xuất khẩu đi Mỹ, thì tỷ lệ LVC yêu cầu là bao nhiêu


Phân biệt LVC và RVC:
- LVC (Local Value Content): Tính toán hàm lượng giá trị được tạo ra trong một quốc gia cụ thể.
- RVC (Regional Value Content): Tính toán hàm lượng giá trị được tạo ra trong toàn bộ khu vực của một hiệp định thương mại tự do (gồm nhiều quốc gia). Ví dụ khi tính toán CO Form D (khối ASEAN); CO From E (khối ASEAN – TQ)
Với những diễn biến mới về thuế quan và các yêu cầu về xuất xứ từ Mỹ, việc nắm vững thông tin và chủ động các giải pháp phòng ngừa rủi ro “transshipping” là điều kiện tiên quyết để hàng hóa Việt Nam tiếp tục khẳng định vị thế và phát triển mạnh mẽ tại thị trường Hoa Kỳ.
Tìm hiểu thêm về các bài viết, mạng xã hội của tôi tại:
Website (tổng hợp tất cả thông tin): www.makein.vn
Linkedin (xuất nhập khẩu): www.linkedin.com/in/tuanvukim
Facebook Page: https://www.facebook.com/profile.php?id=61573822767802
Tiktok (dự án bình giữ nhiệt): www.tiktok.com/tuanvk01